26 thg 3, 2010

58. QUẺ THUẦN ĐOÀI

Trên dưới đều là Đoài (chằm, hòa duyệt)



Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng
nhau, thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ
Tốn tới quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt.
Thoán
từ.
兌; 亨.利貞.
Đoài; Hanh. Lợi trinh.
Dịch:
Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi.
Giảng: Đoài là chằm, cũng
là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh vật vui thích;
thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh thông, miễn là
phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực, đoan chính. Đoài có
hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài, nghĩa là trong lòng
phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là hợp với đạo chính,
tốt.
Thoán truyện – Giảng rộng ra: vui vẻ mà hợp với đạo chính thì
là thuận với trời, hợp với người. Vui vẻ mà đi trước dân thì dân quên
khó nhọc; vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm thì dân quên cái chết mà
cũng xông vào; đạo vui vẻ (làm gương cho dân) thật lớn thay; khuyến
khích dân không gì bằng.
Đại Tượng truyên thiên về sự tu thân,
khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa lý, đạo đức, rồi
cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp ích cho nhau mà hai
bên cùng vui vẻ.
Hào từ.
1.
初九: 和兌吉.

cửu: Hoà đoái, cát.
Dịch: Hào 1, dương: Hoà thuận, vui vẻ, tốt.
Giảng:
dương ở dưới cùng quẻ đoài là quân tử mà khiêm hạ, ở trên lại không tư
tình với ai (vì 4 cũng là dương, không phải là âm, tiểu nhân), nên chỉ
dùng đạo chính mà hoà thuận vui vẻ với mọi người, tốt.
2.
九二.孚兌吉.悔亡.
Cửu nhị: Phu đoài, cát, hối vong.
Dịch:
Hào 2, dương: Trung trực mà vui vẻ, tốt, hối hận mất đi.
Giảng: Ở
gần hào 3, âm nhu, tiểu nhân, nhưng hào 2 này đã dương cương mà lại đắc
trung, cho nên có đức thành thực cương trung, không nhiễm xấu của hào 3,
không bị hối hận.
3.
六三: 來兌凶.
Lục tam:
Lai đoài, hung.
Dịch: Hào 3, âm: Quay lại cầu vui với người ở dưới,
xấu.
Giảng: Âm nhu, bất trung bất chính, là hạng tiểu nhân tìm vui
mà không giữ đạo; là phận gái ở giữa bốn người con trai (4 hào dương, 2 ở
trên, 2 ở dưới), cầu vui với 2 người ở trên, thì không dám vì phận
thấp, phải quay lại cầu với 2 người ở dưới, nhưng họ cũng không thèm, vì
hào 1 cương trực mà chính, hào 2 cương trực mà trung, kết quả là xấu.
4.

九四: 商兌, 未寧, 介疾,有喜.
Cửu tứ; Thương đoài, vị
ninh, giới tật, hữu hỉ.
Dịch: Hào 4, dương: cân nhắc xem nên cầu vui
ở phía nào mà chưa quyết định được rồi sau theo chính bỏ tà, đáng mừng.

Giảng: Dương cương mà ở vị âm, chưa thật là quân tử, ở trên thừa
tiếp hào 5 vừa trung vừa chính, nhưng ở dưới lại gần hào 3, tiểu nhân,
cho nên mới đầu do dự, cân nhắc xem nên hướng về phía nào; nhưng nhờ có
đức dương cương, đồng đức với 5, nên sau hướng về 5, quyết tâm bỏ tà
theo chính, thật đáng mừng.
5.
九五: 孚于剝, 有厲.
Cửu
ngũ : Phu vu bác, hữu lệ.
Dịch: Hào 5, dương: Nếu tin kẻ tiểu nhân
mà tiêu mòn (bác) hết đức trung chính của mình thì nguy.
Giảng: Hào
này dương cương, trung chính, địa vị chí tôn, ở vào thời Đoái mà thân
cận với hào trên cùng âm nhu là kẻ tiêu nhân làm chủ sự vui, rồi ham vui
bậy bạ thì nguy; đây là lời răn kẻ trị nước.
6.
上六:
引兌.

Thượng lục: Dẫn đoài.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Đem sự
vui thú tới.
Giảng: Ở trên cùng quẻ Đoài mà âm nhu là kẻ chuyên
siểm nịnh, dụ dỗ người ta tìm vui một cách bất chính. Tất nhiên là xấu
rồi, chẳng cần nói.
*

Chúng ta để ý; 6
hào thì 2 hào âm là tiểu nhân dụ dỗ 4 hào dương quân tử, và 4 hào này
giữ được chính đạo cả, vì Kinh dịch tin như Khổng tử rằng muốn làm vui
lòng người quân tử mà không dùng chính đạo thì không thành công (duyệt
chi bất dĩ đạo, bất duyệt dã. Luận ngữ XIII 25).

1 nhận xét: