31 thg 5, 2010

10. QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ

Trên là Càn (trời), dưới là Đoài (chằm)




 

Đầu
quẻ Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích)
Tự
quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi đã nhóm họp nhau thì phải có
trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ.
Sống trong xã hội phải theo lễ, dẫm lên cái lễ, không chệch ra ngoài
(chúng ta thường nói dẫm lên dấu chân của một người để diễn cái ý theo
đúng đường lối người ấy); mà dẫm lên, chữ Hán gọi là ☲, do đó sau quẻ
Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích đó có phần nào gượng ép.
Thoán
từ:

履 虎 尾 , 不 咥 人 , 亨 .

Lí hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh.
Dịch:
Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông.
Giảng:
Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm,
vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có
tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình
dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi
cọp mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp,
chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó
với sự cương cường.
Thoán truyện bàn thêm: Hào 5
quẻ này là dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có tệ
bệnh gì cả mà lại được quang minh.
Đại tượng truyện:
bảo trên dưới phân minh (có tài đức ở trên, kém tài đức ở dưới) như vậy
lòng dân mới không hoang mang (định dân chí) không có sự tranh giành.
Hào
từ:

1.
九 : 素 履, 往 , 无 咎 .

Sơ cửu: tố lý, vãng, vô cữu.
Dịch:
hào 1, dương : giữ bản chất trong trắng mà ra với đời thì không có lỗi.

Giảng: hào 1 này như người mới ra đời, còn giữ
được bản chất trong trắng (ý nghĩa của chữ tố) chưa nhiễm thói đời, vì
là hào dương, quân tử, có chí nguyện, cứ giữ chí nguyện mình thì không
có lỗi.
2. 九 二 : 履
道 坦 坦 , 幽 人 貞 吉

Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân
trinh cát.
Dịch: Hào 2, dương: như đi trên đường
bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt.
Giảng:
Hào 2, dương : như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường
chính thì tốt.
Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân,
quân tử, bình thản giữ đạo trung không để cho lòng rối loạn thì tốt.
Tuy
có hào 5 ở trên ứng với , nhưng 5 cũng là dương, không hợp, (phải một
dương một âm mới tìm nhau, hợp nhau, viện nhau) cho nên bảo hào này là
cô độc.
Chúng ta để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5 cũng đều là dương cả,
mà Hào từ bảo 2 và 5 nên tìm nhau mà làm việc; còn quẻ Lý này thì không
, như vậy là phải tùy theo ý nghĩa của quẻ (tùy thời) mà giảng.
3. 六 三 : 眇, 能 視 ; 跛, 能
履 . 履 虎 尾 , 咥 人, 凶 . 武 人 為 于 大 君 .

Lục tam: Miễu,
năng thị; bả, năng lý.
Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại
quân.
Dịch:Hào 3, âm: chột (mà tự phụ là) thấy tỏ,
thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như vậy thì nguy như dẫm lên đuôi cọp mà
bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi làm việc của một ông vua lớn.
Giảng:
Hào này âm nhu mà ở ngôi dương cương, bất chính, bất trung, trên dưới
đều là hào dương cả, không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo các
hào dương, không khác người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu
mà đòi làm một ông vua lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp
cắn.
4. 九 四 : 履 虎 尾 . 愬 愬 終 吉 .
Cửu
tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát.
Dịch:
Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt.
Giảng:
Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở
sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung,
hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí
hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi,
thận trọng.
5. 九 五
: 夬 履 貞 厲 .

Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ.
Dịch:
Hào 5, dương : Quyết tâm hành động quá thì tuy chính đáng cũng có thể
nguy.
Giảng: Hào 5 đắc chính, đắc trung ,rất tốt,
nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ Lý (nói về cách ở đời) thì e có lòng
cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế, mà hóa nguy.
6.
上 九: 視 履, 考 祥 . 其 旋, 元 吉 .

Thượng cửu:
Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát.
Dịch: Hào
trên cùng, dương, xem cách ăn ở trong đời người, cho nên Hào từ diễn ý
nghĩa của toàn quẻ chứ không diễn ý nghĩa của riêng hào cuối. Cũng là
một lệ ngoại như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc.
Quẻ này tên là Lí có
nghĩa là lễ, là dẫm lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong suốt
đời người : mới ra đời thì phải giữ tính chất phác trong trắng, rồi sau
giữ vững đường chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ (hào 3) để
tránh nguy, biết thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở địa vị cao
nhất, đừng ỷ thế mà cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được như vậy cho
tới cuối đời thì tốt không gì bằng.
Chúng ta để ý:
Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh quần dương
như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch.

6. QUẺ THIÊN THỦY TỤNG

Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược hẳn với quẻ
5.



 

Tự
quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn
uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu
là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo)
Thoán từ:
訟 . 有 孚 , 窒, 惕 . 中 吉 . 終 凶 . 利 見 大 人 .
不 利 涉 大 川.

Tụng: Hữu phu, trất, dịch. Trung cát,
chung hung
Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch:
Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch).
Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện
cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì
chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.
Giảng:
Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương,
áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra
kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham
hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn),
tất sinh sự gây ra kiện cáo.
Thoán từ của Chu Công không hiểu hai
cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu
phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ,
phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là
minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng,
quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.
Quẻ khuyên người đó nên đi
tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung
,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì
là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.
Đại tượng truyện
đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm
(nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như
hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng
truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để
tránh kiện cáo.
Hào từ:
1.
初 六: 不 永 所 事 , 小 有 言 , 終 吉 .

Sơ lục: Bất
vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát.
Dịch: Hào 1 âm: đừng kéo dài
(vụ kiện) làm gì, tuy bị trách một chút, nhưng sau được tốt.
Giảng:
Hào 1, âm nhu ở dưới, được hào 4 cương kiện ở trên ứng viện, tức là có
chỗ dựa; nhưng đừng nên ỷ thế sinh sự kéo dài vụ kiện; có bị trách một
chút thì cũng thôi, kết quả được biện minh, thế là tốt.
2. 九 二: 不 克 訟 , 歸 而 逋. 其 邑 人 三 百 戶, 无
眚.

Cửu nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bô. Kì ấp nhân
tam bách hộ, vô sảnh.
Dịch: Hào 2, dương : không
nên kiện, lui về mà tránh đi, ấp mình chỉ có ba trăm nóc nhà thôi (ý nói
địa vị mình thấp, thế mình nhỏ), như vậy thì không bị họa.
Giảng:
Trong phần I, chương IV, chúng tôi đã nói: các hào ứng với nhau (1 với
4, 2 với 5, 3 với 6) phải một dương một âm thì mới có “tình” với nhau,
mới đứng vào một phe, viện trợ nhau, tức trường hợp hào 1 và hào 4 quẻ
này; nếu cả hai cùng là dương hay là âm thì tuy ứng nhau đấy, nhưng có
thể kị nhau, cũng như hào 2 và hào 5 quẻ này. Hai hào này đều là dương
cả, cho nên coi là địch nhau, đứng vào hai phe ở trong quẻ tụng (kiện
cáo).
Hào 2 ở dưới, trung chứ không chính, ở giữa nội quái là Khảm
(hiểm) lại bị hai hào âm 1 và 3 vậy, nên thế yếu, muốn kiện hào 5 (vì 2
có tính dương cương) nhưng thế không địch nổi, vì 5 trung , chính lại ở
ngôi cao. Dưới kiện trên khác gì trứng chọi đá, không nên, thà rút lui
về, tránh đi còn hơn, như vậy không bị tội lỗi.
Tiểu tượng truyện
còn dặn thêm: nếu dưới mà kiện trên, tai họa tới là tự mình vơ lấy đấy:
hoạn chí xuyết (cũng đọc là chuyết, là đoát) dã:
Phan Bội Châu giảng
hào này, dẫn việc Nguyễn Hoàng muốn kình với Trịnh Kiểm (sự thực Trịnh
Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng sợ), cho người hỏi ý kiến
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đáp: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại
dung thân”, có ý khuyên nên trốn tránh vào Nam cho thoát nạn; đó là ý
nghĩa ba chữ “qui nhi bô” trong hào này.
3. 六 三 : 食 舊 德, 貞 厲, 終 吉 . 或 從 王 事 , 无 成.
Lục
tam: Thực cựu đức, trinh lệ,
Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô
thành.
Dịch: Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức
(ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính
đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm
với người trên (chữ vương ở đây trở người trên, không nhất định là vua),
thì cũng đừng mong thành công.
Giảng: Hào 3 đã âm
nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh trên cùng
quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo (vì hào 2
và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu hiểu vậy mà
biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn.
Hào 3 có hào 5 ở trên ứng và có
“tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi cao), nên có khi
lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận thủ thường, cứ
phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng ra kiện, kéo 3
theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập công).
4. 九 四 : 不克 訟 , 復 即 命, 渝 , 安 貞 吉 .

Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát.
Dịch:
Hào 4, dương : không thể kiện cáo được, trở lại theo thiên mệnh (lẽ
chính đáng), đổi ý đi, ở yên theo điều chính thì tốt.
Giảng:
Hào này dương cương mà bất trung, bất chính, “tượng” một người ham kiện
cáo. Nhưng không thể kiện ai được: kiện 5 thì 5 ở trên mình, ngôi tôn,
không dám kiện; kiện 3 thì 3 nhu thuận, chịu thua trứơc rồi; kiện 2 thì 2
vừa cương, chính , trung, sáng suốt, đã tiên liệu rồi, không chịu kiện;
còn 1 thì đã về phe với 4. Đành phải bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ phải, ở
yên, giữ điều chính, như vậy thì tốt.
5. 九 五 : 訟, 元 吉 .
Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát.

Dịch:
Hào 5 dương : xử kiện hay đi kiện, đều rất tốt.
Giảng :
Hào 5 này ở ngôi chí tôn, cương mà minh, trung và chính. Nếu là người
xử kiện thì là bậc có đức, có tài (như Bao Công); nếu là người đi kiện
thì gặp đựơc quan tòa có đức, có tài. Không gì tốt bằng.

6. 上 九 : 或 錫 之 鞶 帶 , 終 朝, 三 褫 之.

Thượng cửu: hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi.

Dịch:
hào trên cùng, dương : (kiện ) may mà được cái đai lớn (của quan chức)
thì trong một buổi sáng sẽ bị cướp ba lần.
Giảng:
Hào dương này ở trên cùng quẻ Tụng là kẻ rất thích kiện, kiện tới cùng.
Nó ở ngôi 6 là bất chính, cho nên dù có may ra được kiện, thì chẳng bao
lâu cũng sẽ mất hết, rốt cuộc vẫn không lợi.
*
Quẻ tụng này ý
nghĩa các hào rất nhất trí, sáng sủa.
Trước sau chỉ là răn người ta
đừng ham tranh nhau kiện cáo: hào 3 không kiện với ai, tốt; hào 2 muốn
kiện mà sau thôi không kiện, cũng tốt; hào 1 bị kiện thì nên nhường nhịn
một chút, rốt cuộc sẽ tốt, duy có hào 6 bằng kiện tới cùng thì dù có
thắng, cũng hóa xấu.
Còn hào 5 diễn cái ý: có một Tòa án công minh
thì phục cho dân biết bao.